ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA 01
PHẦN I. ĐỌC
HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Đất nước mình bé nhỏ vậy thôi em
Nhưng làm được những điều phi thường lắm
Bởi hai tiếng nhân văn được cất vào sâu thẳm
Bởi vẫn giữ vẹn nguyên hai tiếng đồng bào.
Em thấy không? Trong nỗi nhọc nhằn, vất vả, gian lao
Khi dịch bệnh hiểm nguy đang ngày càng lan rộng
Cả đất nước mình cùng đồng hành ra trận
Trên dưới một lòng chống dịch thoát nguy.
Với người láng giềng đang lúc lâm nguy
Đất nước mình không ngại ngần tiếp tế
Dù mình còn nghèo nhưng mình không thể
Nhắm mắt làm ngơ khi ai đó cơ hàn.
Với đồng bào mình ở vùng dịch nguy nan
Chính phủ đón về cách ly trong doanh trại
Bộ đội vào rừng chịu nắng dầm sương dãi
Để họ nghỉ ngơi nơi đầy đủ chiếu giường.
Với chuyến du thuyền đang khóc giữa đại dương
Mình mở cửa đón họ vào bến cảng
Chẳng phải bởi vì mình không lo dịch nạn
Mà chỉ là vì mình không thể thờ ơ.
Thủ tướng phát lệnh rồi, em đã nghe rõ chưa
“Trong cuộc chiến này sẽ không có một ai bị để lại”
Chẳng có điều gì làm cho mình sợ hãi
Khi trong mỗi người nhân ái được gọi tên.
Từ mái trường này em sẽ lớn lên
Sẽ khắc trong tim bóng hình đất nước
Cô sẽ nối những nhịp cầu mơ ước
Để em vẽ hình Tổ quốc ở trong tim.
Nhớ nghe em, ta chẳng phải đi tìm
Một đất nước ở đâu xa để yêu hết cả
Đảng đã cho ta trái tim hồng rạng tỏa
Vang vọng trong lòng hai tiếng gọi Việt Nam!
(Đất
nước ở trong tim, bài thơ của cô giáo Chu Ngọc Thanh,
Gia Lai)
Trả
lời các câu hỏi sau:
Câu 1. Bài thơ trên nói về sự kiện gì? Cảm
xúc của tác giả trong bài thơ?
Câu 2. Việc trích dẫn ý kiến của thủ
tướng trong bài thơ có tác dụng gì?
Câu 3. Ý nghĩa của hai dòng thơ:
Chẳng có điều gì làm cho mình sợ hãi
Khi trong mỗi người nhân ái được gọi tên.
Câu 4. Hãy rút ra thông điệp của bài
thơ? Từ thông điệp ấy, Anh/chị thấy bản thân mình cần học tập và phát huy điều
gì để làm rạng danh con người Việt Nam.
PHẦN II.
LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1. (2.0 điểm)
Từ
nội dung phần Đọc hiểu, Anh/chị hãy viết 01 đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn
về ý nghĩa của hai từ “Nhân ái”.
Câu 2. (5.0 điểm)
“Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa
muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện
làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung
sướng về sau này:
– Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua
mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện
quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc mà có ngay đàn gà cho mà xem…
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan
ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu
chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người
được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai
con vui vẻ:
– Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái
này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ
bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh
mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
– Chè đây. – Bà lão múc ra một bát –
Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa
lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm
cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
– Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ
thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy…
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun
ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa com từ đấy không ai nói
câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len
vào tâm trí mọi người”.
Cảm nhận của Anh/chị về vẻ đẹp của
các nhân vật trong đoạn trích trên. Qua đó phát biểu giá trị nhân đạo sâu sắc
của tác phẩm “Vợ nhặt”.
Nguồn: Ths Phan Danh Hiếu