NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ


1. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ
A. HƯỚNG DẪN TRIỂN KHAI BỐ CỤC
1. Giới thiệu: Tác giả, tác phẩm và đoạn thơ/bài thơ.
2. Khái quát: Vị trí, vai trò đoạn thơ trong bài thơ hoặc bài thơ trong sự nghiệp sáng tác của tác giả hay nền văn học Việt Nam bài thơ.
3. Phân tích/Cảm nhận: Làm rõ nội dung và nghệ thuật. Chủ yếu sử dụng thao tác phân tích, chứng minh. (Đặc biệt dành sự quan tâm cho: hình ảnh thơ, chi tiết, hình tượng, thể thơ, nhịp thơ, giọng điệu bài thơ, ngôn ngữ, thanh điệu, biện pháp tu từ…)


4. Bình luận: Cảm nhận/Đánh giá chung
– Nhận xét, đánh giá hoặc cảm nhận chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ/bài thơ, như: cái hay, độc đáo của đoạn thơ trong bài thơ/bài thơ trong sự nghiệp sáng tác của tác giả và nền văn học Việt Nam.
– Có thể liên hệ so sánh với một hoặc nhiều tác phẩm có nét tương đồng.
5. Tạo ấn tượng kết thúc
– Đoạn thơ góp phần làm nên thành công cho bài thơ/vị trí, vai trò của bài thơ trong sự nghiệp sáng tác của tác giả hay nền văn học Việt Nam.
– Có thể liên hệ bản thân, cuộc sống nếu vấn đề mang tính giáo dục: tình yêu quê hương, đất nước, tự hào, trân trọng,…
B. ĐỀ MINH HỌA VÀ GỢI Ý
I. ĐỀ MINH HỌA
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người…
(Trích Tây Tiến, Quang Dũng)
II. GỢI Ý
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích Tây Tiến
Dù cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã đi vào quá vãng, nhưng khi đọc những tác phẩm thơ ca của các thi sĩ thời kì đó, ta như sống lại một thời đầy đau thương nhưng cũng rất hào hùng. Và “Tây Tiến”, một tác phẩm văn học xuất sắc và tiêu biểu cho thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp của nhà thơ Quang Dũng là một trong những tác phẩm như vậy.
Nhà thơ Quang Dũng trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp và được biết đến với phong cách thơ phóng khoáng, hào hoa. “Tây Tiến”, là một trong những tác phẩm mang đậm dấu ấn phong cách sáng tác của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ ra đời vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh sau một năm khi rời xa đơn vị Tây Tiến. Sau này, bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” (1986). Sau đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc được thêu dệt bằng nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng sau một năm rời xa đơn vị Tây Tiến:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mõi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
2. Khái quát
Vị trí đoạn thơ nằm ở đầu bài thơ. Đoạn thơ không chỉ tái hiện lại vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc mà còn ghi lại một thời bi hùng mà đoàn quân Tây Tiến – những người lính thời kì kháng chiến chống Pháp trải qua.
3. Phân tích/Cảm nhận:
Sau hơn một năm gắn bó, vào sinh ra tử với những người đồng đội Tây Tiến, nhà thơ - người lính trẻ Quang Dũng phải rời xa đơn vị, chuyển đến một nơi công tác mới. Sự rời xa đột ngột này đã để lại một khoảng trống lớn trong ông. Khoảng trống ấy là tình yêu, là nỗi nhớ da diết dành cho đơn vị và mãnh đất đã “hóa tâm hồn” (Chế Lan Viên).
Mở đầu bài thơ là lời gọi thân thương được thêu dệt bằng nỗi nhớ của tác giả:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
“Sông Mã” là địa danh đầu tiên hiện lên trong nỗi nhớ của Quang Dũng. Về mặt địa lý, đó là con sông với dòng chảy uốn lượn bắt nguồn Điện Biên và Lào - vùng có có nhiều núi đồi cheo leo, hiểm trở. Dòng sông chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Điểm đến cuối cùng của dòng sông là ở Thanh Hóa. Còn đối với đơn vị Tây Tiến, đây là con sông gắn liền với lộ trình hành quân của họ. Có lẽ vì vậy mà sông Mã là con sông được Quang Dũng nhắc đến đầu tiên với nỗi niềm tiếc nhớ, bâng khuâng qua hai từ “xa rồi”. “Xa”ở đây là xa cả về không gian lẫn thời gian. Tiếng gọi thân thương “Tây Tiến ơi” đậm chất khẩu ngữ, vừa mang âm hưởng vang vọng bởi vần “ơi” mang bao nỗi niềm.Với câu thơ thứ 2:
“Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Thì nỗi nhớ của Quang Dũng đã được cụ thể hóa là nỗi nhớ về “rừng núi” nhưng nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ “chơi vơi”, lưng chừng, vô định vì mất đi điểm tựa. “nhớ chơi vơi” vừa là nỗi nhớ, là hoài niệm, lúc ẩn, lúc hiện. Một lần nữa vần “ơi” lại xuất hiện, chính đặc điểm ngữ âm của vần “ơi” – âm mở, tạo nên âm hưởng vang vọng, da diết.Nhịp thơ 4/3 và điệp từ “nhớ” trong câu thơ làm cho nỗi nhớ đã đầy nay lại càng thêm diết da. Đó là nỗi nhớ ám ảnh và thường trực trong lòng Quang Dũng, chỉ chờ chực trào ra miên man.
Hai câu thơ đầu đóng vai trò như hai câu đề, hé mở cảm hứng chủ đạo bao trùm bài thơ là nỗi nhớ.
Thiên nhiên, thời tiết khắc nghiệt
Nỗi nhớ ấy được tái hiện, trước hết là những chặng đường hành quân qua thiên nhiên hùng vĩ và dữ dội. Nhớ thiên nhiên hùng vĩ và khắc nghiệt:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Địa danh được Quang Dũng nhắc đến trong hai câu thơ là “Sài Khao” và “Mường Lát”. Về vị trí địa lý, Sài Khao là thung lũng thuộc huyện Mường Lát, nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hóa. Hai địa danh là vùng đất giáp Lào xa xôi, hẻo lánh nằm trong lộ trình mà đoàn quân Tây Tiến đi qua.
Trong hồi ức của Quang Dũng, Sài Khao được tái hiện với hình ảnh “sương lấp”, đó điều kiện thời tiết khó khăn, gây cản trở cho việc hành quân. Động từ “lấp” với thanh trắc nặng trĩu góp phần miêu tả mật độ sương dày, cản trở tầm nhìn khiến cho những bước chân hành quân của những người lính trở nên nặng trĩu và mệt mỏi. “Mường Lát” là địa danh thứ hai mà đoàn quân Tây Tiến đi qua, trong kí ức của Quang Dũng, hình ảnh Mường Lát về đêm hiện lên thật nên thơ và lãng mạn với hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”. Tại sao không phải là hoa nở, hoa rơi.. mà lại là hoa về? “Hoa về” ở đây là hình ảnh nhân hóa, có thể chỉ những loài hoa nở về đêm tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Hình ảnh nhân hóa “hoa về” khiến cho ta có cảm giác như ban ngày hoa trốn đi mất, ban đêm hoa lại về khiến cho thiên nhiên trở nên thơ mộng và có hồn. Với hình ảnh “hoa về” lại có ý kiến cho rằng “hoa về” ở đây là hoa được những người lính hái mang về trên đường hành quân hay “hoa về” là những tàn đuốc. Nhưng cách lý giải này có phần chưa hợp lý cho lắm. Nhưng suy cho cùng thì hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” cũng đã khiến cho chặng đường hành quân của những anh lính trẻ bỗng trở nên thi vị và lãng mạn vô cùng. Còn “Đêm hơi” lại gợi hương hoa thơm ngào ngạt hoặc sương đêm hoặc cũng có thể là mùi của đất, khi về đêm Tây Bắc trở nên lạnh lẽo, hơi ẩm nóng mà đất tích tụ từ ban ngày bốc lên, rất có hại cho sức khỏe.
Tóm lại, với hai câu thơ những địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” gọi về những hồi ức trận mạc Quang Dũng đi qua, những chặng đường hành quân với điều kiện thiên nhiên và thời tiết khắc nghiệt nhưng cũng có phần lãng mạn, nên thơ.
Địa hình Tây Bắc hiểm trở
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Với những câu thơ này, thiên nhiên Tây Bắc hiên lên thật hùng vĩ và tráng lệ vô cùng. Trước hết là câu thơ:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”
Câu thơ này mở ra điểm nhìn ngang. Ở điểm nhìn này không gian mở ra theo chiều cao và độ sâu. Điệp từ “dốc” và nhịp thơ 4/3 đã mở ra trước mắt người lính là chặng đường mới với những con dốc nối tiếp con dốc, con dốc này chưa đi qua, con dốc khác cao hơn đã chào đón ở trước mặt. Với từ láy tượng hình “khúc khuỷu” và “thăm thẳm” đã phác họa ra trước mắt những con đường trên những triền núi quanh co, hiểm trở, là đèo cao, vực sâu hun hút đầy khó khăn và hiểm nguy.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Câu thơ này lại mở ra một điểm nhìn mới. Đó là điểm nhìn từ những ngọn núi cao vọng xuống, chỉ thấy những “cồn mây” trắng bay là đà ngang tầm mình và gần đến mức: súng có thể ngửi được mây trời, không khí trên cao lạnh lẽo, gió thổi ào ào. Ở điểm nhìn này, dễ khiến con người cảm thấy quạnh quẽ, hiu hắt. Hình ảnh đặc sắc nhất trong câu thơ này là hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” . Vì nó vừa gợi ra được độ cao và vừa thấy được tâm hồn tuổi đôi mươi trẻ trung, tinh nghịch của Quang Dũng và những người lính Tây Tiến. Đấy chính là tinh thần lạc quan của những người lính cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Không những vậy, câu thơ còn gợi cho ta về hình tượng người lính với mang vóc kì vĩ, lớn lao, sánh ngang với thiên nhiên, đất trời.
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Câu thơ này lại đưa ta về với điểm nhìn ban đầu – tầm nhìn ngang. Là điểm nhìn cũ, nhưng không gian lại mở ra rộng và cao hơn với điệp từ “ngàn thước”, cặp từ tương phản, đối lập “lên – xuống” cùng cách ngắt nhịp 4/3, khiến cho câu thơ như bị bẻ đôi, con đường từ đó mà tạo thế “núi vút nghìn đầu nam dựng đứng” (Nguyễn Trãi), rất nguy hiểm.
Nguy hiểm luôn rình rập
Lửa thử vàng, gian nan thử sức, những khó khăn trên chặng đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến chưa dừng lại ở đó, mà còn phải đối mặt với những hiểm nguy luôn rình rập:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Cụm từ “thác gầm thét” với thanh trắc - bằng - trắc tạo nên âm thanh tiếng thác vừa vang xa vừa mạnh mẽ, vừa như xé toạc cả không gian núi rừng. Đặc biệt hơn là từ “oai linh” đã mở ra một không gian không chỉ choáng ngợp với tiếng thác, mà còn linh thiêng ghê rợn đến dựng cả tóc gáy. Núi rừng Tây Bắc hoang vu không chỉ có những ngọn thác linh thiêng mà có cả thú dữ. Là hổ “trêu” chứ chẳng phải hổ vồ. Bởi vì vồ là chết, mà chết là hết còn biết sợ là gì đâu. Còn từ “trêu” nghe sao rùng rợn, ám ảnh, kinh hoàng. Bởi vì hổ dữ gầm gừ trêu đùa khiến cho người ta thấp thỏm, sợ hãi từ đêm này sang đêm khác. Cảm giác như bị tra tấn tinh thần cho đến chết vậy. Thời gian “Chiều chiều, đêm đêm” chỉ tần xuất của những mối nguy hiểm luôn kề kề khi chiều đến, khi màn đêm buông xuống mà ra tay với những người lính. Bao quanh trên chặng đường hành quân của những người lính trẻ là điệp điệp trùng trùng những núi cao, đèo sâu, là những mối hiểm nguy luôn rình rập, chỉ chực chờ họ sơ hở mà cướp đi sinh mạng. Vì thế hi sinh là điều các anh lính không thể nào tránh khỏi.
Tư thế hi sinh
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
Câu thơ “Anh bạn dãi dầu không bước nữa” là hình ảnh của những người đồng đội, đồng chí đã quá mỏi mệt trên chặng đường tìm đến ngày độc lập, tự do. Những chiến sĩ còn sống, họ đã đã đớn mà chứng kiến cảnh đồng đội “vào sinh ra tử” của mình ngã xuống. Nhưng sự ra đi ấy, trong ánh mắt lạc quan của những người lính được nói giảm nói tránh như là điểm dừng chân để tìm về một giấc ngủ sâu nghỉ ngơi sau những đường hành quân mệt mỏi, qua hai cụm từ “không bước nữa”, “bỏ quên đời”. Hoặc chỉ đơn giản như là “anh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, chúc anh lên đường may mắn”. Cho nên, tư thế ra đi “gục lên súng mũ” của những người lính đã hoàn thành nhiệm vụ cũng thật ngang tàng, hào hùng. Tư thế ra đi ấy thật đẹp và lãng mạn, giống như tư thế người anh hùng Từ Hải ra đi vậy.
Với sức mạnh của lý tưởng cách mạng và tinh thần của những người lính đã được tôi luyện qua những chặng đường đồng hành cùng thần chết. Có lẽ vậy mà khi nói về cái chết họ rất xem nhẹ nó. Đó là tinh thần thép của những người lính cụ Hồ, bởi họ biết rằng: đất nước mình giặc vẫn còn giày xéo, dân tộc mình vẫn còn phải đổ máu và chặng đường hành quân vẫn còn nhiều lắm gian khổ đang đón chờ họ ở phía trước. Nên lạc quan, là tinh thần buộc họ phải tôi rèn.
4. Bình luận: Cảm nhận/Đánh giá chung
Về nghệ thuật, nhà thơ Quang Dũng vốn là họa sĩ, nhạc sĩ, có lẽ vì thế mà chất liệu ngôn từ của ông giàu chất tạo hình, đã vẽ ra trước mắt ta là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng đầy hiểm nguy, khó khăn, nhọc nhằn. Nhịp thơ 4/3 và chủ yếu sử dụng thanh trắc, với đặc điểm ngữ âm nhanh, mạnh làm cho những câu thơ trở nên giàu nhịp điệu, như một bản hùng ca hào hùng về núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó, giọng thơ thay đổi linh hoạt, có lúc nhanh và mạnh mẻ, có lúc lại trầm buồn tiếc thương. Cách vận dụng từ ngữ, ngữ âm vào bài thơ hợp lý. Tất cả đã góp phần làm nên thành công nội dung của đoạn thơ này.
Về nội dung, với đoạn thơ trên, Quang Dũng không chỉ miêu tả, tái hiện lại vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc mà còn tái hiện lại một thời vừa bi vừa hào hùng của những người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trong thời kì chống Pháp nói chung.
5. Tạo ấn tượng kết thúc
Đoạn thơ trên đây là một trong những đoạn thơ hay, đặc sắc của bài thơ Tây Tiến. Với đoạn thơ này, Quang Dũng không chỉ tái hiện lại không khí bi hùng thời kì kháng chiến chống Pháp của dân tộc mà còn gián tiếp giáo dục thế hệ trẻ ngày nay tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc và lòng biết ơn đối với thế hệ cha anh.
Đồng thời đoạn thơ là một bản hùng ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc, khơi gợi ở lòng người đọc tình yêu thiên nhiên quê hương.
Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, là thế hệ tương lai của đất nước được thừa hưởng những được tốt đẹp nhất mà cha anh đã để lại, chúng ta cần có ý thức, trách nhiệm trong học tập cũng như trong cuộc sống để mai này mang đất nước đi xa đến những ngày tháng mơ mộng.
(Trích từ sách Thủ thuật giải nhanh đề thi Ngữ văn, Chí Bằng, NXB Tổng hợp TpHCM)

Tham khảo thêm:
Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên và con người qua đoạn trích sau:
Ta về, mình có nhớ ta ?
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Các ý chính cần đạt :
– Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.
– Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng “người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.
– Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:
+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian
+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.
+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.
+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.
– Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:
+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.
+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón”
+ Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình
+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.
– Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại

+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả

+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh.

Bài làm
:
“Việt Bắc” là một trong những tập thơ hay nhất của Tố Hữu. Tập thơ này chủ yếu viết về thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong đó “Việt Bắc” được xem là đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bài thơ là một bức tranh trữ tình mà hoành tráng, bao quát cả một diện lớn vé thời gian suốt 15 năm “Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, trên một không gian là toàn bộ Việt Bắc, kéo tràn sang Tây Bắc. Bút cảa Tố Hữu ở bài thơ này tỏ ra rất dồi dào. “Việt Bắc” là một bài thơ dài, không phải đoạn nào viết cũng đểu tay. Nhưng có những đoạn quả thật là đặc sắc mà ở đó người đọc thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu:
Ta về, mình có nhớ ta ?
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Tố Hữu được xem là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng. Nói đến Tố Hữu là nói đến một tiếng thơ trữ tình – chính trị. Suốt cả đời mình, Tố Hữu đã viết về lý tưởng lớn, lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn của người cách mạng. Người ta vẫn nói ở Tố Hữu có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố cổ điển, dân gian và yếu tố cách mạng hiện đại. Có lẽ vì thế mà thơ Tố Hữu có khả năng thấm sâu vào tâm hồn quần chúng nhân dân. Cho đến nay, Tố Hữu đã cho xuất bản 6 tập thơ: “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa’, và gần đây nhất là “Một tiếng đờn’. Những tập thơ ấy đều gắn liền, tương ứng với những chặng đường lớn của cách mạng Việt Nam. Có lẽ vì thế mà có người đã gọi thơ Tố Hữu là cuốn “biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam”. Nghĩa là là cho đến nay, Tố Hữu đã hoàn chỉnh một phong cách thơ của mình, một cuộc đời thơ của mình.
Đoạn thơ trên là một trong những đoạn tiêu biểu của bài VB. Tất cả chỉ có 10 câu, tập trung nói đến một chủ đề nhưng nó đã đạt đến sự toàn bích. Đoạn thơ này cđ thể chia làm hai phần: phần đầu gồm hai câu. Nó như lời mở đầu đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên. Trong đó người con trai (người về xuôi) vừa ướm hỏi lòng người ở lại, vừa khẳng định những tình cảm trong lòng mình. Phần sau gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục bát. ở mỗi cặp, cứ câu lục tả hoa thì câu bát tả người. Nó là một bức tranh tứ bình diễn tả hoa và người Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền đất này. Có thể nói, cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc tuy được mô tả rải rác trong cả bài thơ nhưng dường như nó được kết tinh vào đoạn này một cách hàm súc, cô đúc nhất.
Chúng ta biết bài thơ được viết theo hình thức hát đối đáp của dân gian. Hai câu thơ đầu, về chức năng đối đáp, là hai câu đưa đẩy để nối liền các mảng đề tài trong một cuộc hát. Đó là người con trai ướm hỏi người con gái:
Ta về mình có nhó ta
Lời hỏi vẫn có cái giọng tình tứ, với cách xưng hô ta mình – mình ta. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ở sự cao nhã trong tình cảm. Ta về chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà nỗi nhớ mới duyên dáng và tế nhị làm sao:
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Như vậy là người ra đi khẳng định tình cảm của mình bằng nỗi nhớ mà là nhớ về những gì đẹp nhất của Việt Bắc. Đó là hoa và người. Trong nỗi nhớ của người đi hai hình ảnh này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là “hoa của đất”. ‘Vi vậy, hễ nhớ đến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiển hiện hình người. Hoa và người không thể tách rời. Mà nói với một người con gái, lại nói “hoa cùng người” thì đó chẳng phải là một lời đánh giá kín đáo hay sao?
Và như thế, chủ đề của đoạn thơ đã được giới thiệu. Đó là hoa cùng người Việt Bắc.
Tranh tứ bình là một trong những loại hình rất phổ biến trong nghệ thuật trung đại. Nó thường là một bộ tranh gồm bốn bức mô tả bốn mặt của một đối tượng nào đấy. Vỉ vậy, tự nó đã cố tính hoàn chỉnh riêng. Thậm chí tự nó là một cách khái quát riêng, một thế giới riêng. Ta đã từng gặp những bộ tứ bình như: tùng – trúc – cúc – mai, xuân – hạ – thu – đông (tứ quý), ngư – tiều – canh – mục, long – li – quy – phượng, cầm – kỳ – thi – hoạ… Trong thơ ca chúng ta cũng từng gặp rất nhiều, đó là cảnh “Trông bốn bể” trong “Chinh phụ ngâm”, đoạn “buồn trông” khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, đoạn thơ mô tả bốn cảnh thuộc thời oanh liệt của con hổ trong “Nhớ rừng” của Thế Lữ… Những bức tranh tứ bình này giúp cho nhà thơ mô tả được một cách toàn diện và thâu tóm những gì là đặc trưng nhất. Tố Hữu đã sử dụng lối vẽ tranh tứ bình khá nhuần nhuyễn trong nhiều bài, đoạn thơ này có thể xem là bộ tranh tứ bình tứ quý về “hoa và người” của 4 mùa Việt Bắc.
Mở đầu là một hình ảnh có tính khái quát, trong đó Việt Bắc hiện lên như một miền quê thật lặng lẽ:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
Gam màu cơ bản của bức tranh này là màu xanh. Đó là một màu xanh mênh mông và trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, tĩnh. Nhưng trên cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hình ảnh hoa chuối rừng bập bùng cháy như những bó đuốc. Ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng tuy tác giả chỉ viết hai chữ ” đỏ tươi” nhưng cũng đủ gợi cho chúng ta biết hoa chuối đã làm sáng lên cả một góc rừng. Thế là hoa chuối làm cho cảnh rừng trở nên sống động hơn. Đồng thời hình ảnh hoa chuối lại được tô điểm thêm những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc ở nơi này trở nên tươi sáng và linh động. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao trên thắt lưng, loé sáng. Nó gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của người làm chủ núi rừng. Tố Hữu thường mô tả con người trong tư thế ấy. Trong bài “Lên Tây Bắc” tác giả có viết:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo.”
Cũng là một hình ảnh ấy nhưng ở đoạn thơ trên, Tố Hữu phải viết bằng 4 câu thơ 28 chữ. Còn ở bài Việt Bâc này dường như nhà thơ đâ cô đúc vào 8 chữ. Nhà thơ không vẽ kỹ mà chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ vê hình tượng. Vậy là, tương ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu người, mỗi dáng điệu toát lên một phẩm chất của người Việt Bắc.
Bức tranh thứ hai:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Đến đây nên xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng. Hai chữ “trắng rừng” khiến cảnh rừng như bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài “Theo chân Bác”, Tố Hữu sẽ viết:

“Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giói nở hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.”

Trên nễn cảnh ấy hiện ra hình ảnh người Việt Bắc trong một công việc thầm lặng: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi gịang”. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì?
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”

Trong những bức tranh trên, chúng ta mới chỉ thấy màu sác, đường nét và ánh sáng. Đến đây chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thi Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kỳ lạ của những cánh rừng phách. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá «, Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Chi cổ vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh vào khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luổng gió ào qua. Bõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hằn, sấc trắng đã nhường chỗ hẳn cho sác vàng. Dường như âm thanh đã làm đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đấy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hy sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết.
Bộ tranh này kết thúc bằng bức tranh thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, riêng bức này là cảnh đêm. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyển ảo: “Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Nó xui khiến ta nhớ đến một câu thơ cũng viết vể đêm rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh: “Trăng lồng cồ thụ bóng lồng hoa”. Đây đúng là khung cảnh trữ tình dành cho những cuộc hát giao duyên. Cho nên nó là cảnh cuối cùng: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thuỷ của người Việt Bắc.
Tóm lại, bốn bức tranh, bốn cảnh sắc, bốn dáng điệu. Tố Hữu đã thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Điều thú vị là tất cả đều hiện lên trong điệp khúc nhớ thương. Những chữ “nhớ” đứng ở đầu câu tạo nên âm hưởng rất mặn mà, da diết của nỗi nhớ. Trong nỗi nhớ tất cả đều hiện lên lung linh hơn, huyền ảo hơn.
(Theo Thutrang.edu.vn)

Các bài viết của blog được tham khảo từ: www.cadasa.vn, Loigiaihay.com, Updating...

Đăng nhận xét

[facebook][blogger][disqus]

TDK

{facebook#https://www.facebook.com/TTTPUS} {twitter#https://twitter.com/pldinhkhiem} {google-plus#https://plus.google.com/110765780685737079983?hl=vi} {youtube#https://www.youtube.com/channel/UC15FfWuEkvpbESRDj2S718g}

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget